Truyền
thông (từ Latin: commūnicāre, nghĩa là "chia sẻ" là hoạt động truyền đạt thông tin thông qua trao đổi ý tưởng, cảm xúc, ý định,
thái độ, mong đợi, nhận thức hoặc các lệnh, như ngôn ngữ, cử chỉ phi ngôn ngữ, chữ viết, hành vi và có thể bằng các phương tiện khác như
thông qua điện từ, hóa chất, hiện tượng vật lý và mùi vị. Đó là sự
trao đổi có ý nghĩa của thông tin giữa hai hoặc nhiều thành viên (máy móc, sinh vật hoặc các bộ phận của chúng).
Truyền
thông đòi hỏi phải có một người gửi, một tin nhắn, một phương tiện truyển tải
và người nhận, mặc dù người nhận không cần phải có mặt hoặc nhận thức về ý định
của người gửi để giao tiếp tại thời điểm việc truyền thông này diễn ra; do đó
thông tin liên lạc có thể xảy ra trên những khoảng cách lớn trong thời gian và
không gian. Truyền thông yêu cầu các bên giao tiếp chia sẻ một khu vực dành
riêng cho thông tin được truyền tải. Quá trình giao tiếp được coi là hoàn thành
khi người nhận hiểu thông điệp của người gửi.
Các
phương thức truyền tin là những sự tác động lẫn nhau qua một trung gian giữa ít
nhất hai tác nhân cùng chia sẻ một ký hiệu tin tức hoặc một quy tắc mang một ý nghĩa nào đó. Truyền
tin thường được định nghĩa là "sự truyền đạt suy nghĩ, ý kiến hoặc thông
tin qua lời nói, chữ viết, hoặc dấu hiệu".
Truyền thông là gì?
Truyền thông (communication) là quá
trình chia sẻ thông tin. Truyền thông là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít
nhất có hai tác nhân tương tác lẫn nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung.
Ở dạng đơn giản, thông tin được truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức
tạp hơn, các thông tin trao đổi liên kết người gửi và người nhận. Phát triển
truyền thông là phát triển các quá trình tạo khả năng để một người hiểu những
giừ người khác nói (ra hiệu, hay viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và
biểu tượng, và học được cú pháp của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính:
nội dung, hình thức, và mục tiêu. Nội dung truyền thông bao gồm các hành động
trình bày kinh nghiệm, hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu
hỏi. Các hành động này được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát
biểu, bài viết, hay bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ
chức khác, thậm chí là chính người/tổ chức gửi đi thông tin.
Có nhiều cách định nghĩa lĩnh vực
truyền thông, trong đó truyền thông không bằng lời, truyền thông bằng lời và
truyền thông biểu tượng. Truyền thông không lời thực hiện thông qua biểu hiện
trên nét mặt và điệu bộ. Khoảng 93% “ý nghĩa biểu cảm” mà chúng ta cảm nhận
được từ người khác là qua nét mặt và tông giọng. 7% còn lại là từ những lời nói
mà chúng ta nghe được. Truyền thông bằng lời được thực hiện khi chúng ta truyền
đạt thông điệp bằng ngôn từ tới người khác. Truyền thông biểu tượng là những
thứ chúng ta đã định sẵn một ý nghĩa và thể hiện một ý tưởng nhất định ví dụ
như quốc huy của một quốc gia.
Hội thoại giữa các cá nhân thường xuất
hiện theo cặp hoặc từng nhóm với qui mô khác nhau. Qui mô của nhóm tham gia
thường tác động tới bản chất của cuộc hội thoại. Truyên thông trong nhóm nhỏ
thường diễn ra giữa ba đến mười hai cá nhân và khác biệt với trao đổi qua lại
giữa các nhóm lớn hơn như công ty hay cộng đồng. Hình thức truyền thông này
được hình thành từ một cặp hay nhiều hơn, thông thường được đề cập tới như một
mô hình tâm lý học trong đó thông điệp được truyền từ người gửi đến người nhận
qua một kênh thông tin. Ở cấp độ lớn nhất, truyền thông đại chúng chuyển các
thông điệp tới một lượng rất lớn các cá nhân thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng.
Quá trình truyền thông diễn ra liên
tục. Khi bạn ngồi yên lặng trong góc phòng, mặc cho mọi người xung quanh nói
hay làm gì thì cũng đang gửi những tín hiệu truyền thông không bằng lời cho
những người xung quanh (cho dù vô tình hay cố ý).
Bởi truyền thông là quá trình gửi và
nhận thông tin, các mốc phát triển truyền thông thường gắn liền với tiến bộ
công nghệ. Tóm lược bài viết “Truyền thông các nhân tiếp bước truyền thông đại
chúng” trên Vnexpress.net dưới đây đóng góp một số thông tin thú
vị về bước tiến của truyền thông với công nghệ mới.
Năm 1448, thợ kim hoàn Gutenberg sống
tại Mainz (Đức) đã phát minh ra hệ thống “movable type” (tôi tạm dịch: hệ thống
sắp chữ động?) (dù người Trung Quốc tuyên bố họ mới là người đầu tiên nghĩ ra
công nghệ này). Người ta nhập (type) các chữ cái vào thiết bị và sau đó in các
trang văn bản ra giấy (move). Phương pháp này phá vỡ kiểu phân phối thông tin
chủ đạo thời đó: các nhà truyền giáo chép tay các thông tin hoặc khắc lên gỗ
rồi in ra giấy. Năm 1455, Gutenberg kinh doanh công nghệ cùng người đồng hương
giàu có Johannes Fust. Tuy nhiên, chi phí duy trì đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát
và Gutenberg sớm bị vỡ nợ.
Johannes Gutenberg (1398-1468)
Dù vậy, chỉ sau vài thập kỷ, “movable
type” đã lan khắp châu Âu, góp phần không nhỏ vào cuộc cách mạng thông tin, còn
gọi là thời kỳ Phục Hưng và trong những thế kỷ tiếp theo, sách, báo, tạp chí…
bắt đầu được phát hành rộng rãi.
Năm 2001, tức 5,5 thế kỷ sau,
"movable type" lại hồi sinh. Ông bà Ben và Mena Trott (sống tại San
Francisco, Mỹ) chịu cảnh thất nghiệp trong giai đoạn khủng hoảMena bắt đầu lập
web cá nhân (blog) Dollarshort để "kể về những chuyệt vặt vãnh thời thơ
ấu". Trang Dollarshort dần trở nên nổi tiếng và vợ chồng Trotts quyết định
xây dựng một công cụ hỗ trợ đăng blog hiệu quả hơn. Phần mềm mang tên Movable
Type này hiện là sự lựa chọn số một của nhiều blogger danh tiếng và nằm trong
10 công cụ tạo web cá nhân hàng đầu do tạp chí Forbes bình chọn.
“Movable type” đầu tiên đánh dấu sự
xuất hiện của khái niệm truyền thông đại chúng, còn Movable Type lần hai lại
báo hiệu giai đoạn "truyền thông cá nhân" . Hiện tượng văn hóa mới mẻ
này đặc biệt phổ biến trong giới trẻ, nhất là ở những nước phát triển.
Bảy câu hỏi MVTT
1. Linh đạo Truyền
Thông là gì?
2. Phong cách của
thành viên MVTT phải như thế nào?
3. Nhiệm vụ quan trọng
nhất của thành viên MVTT là gì?
4. Cần phải truyền
thông trong Chúa như thế nào?
5. Thành viên MVTT gắn bó với nhau như thế nào?
6. Thành viên MVTT
phục vụ cho nền văn hóa gặp gỡ như thế nào?
7. Thành viên MVTT
dấn thân trong ý hướng nào?